- Thánh
Giuse Nguyễn Duy Khang (1832-1861)
Giuse
Nguyễn Duy Khang là Thầy Giảng Dòng Ba Ða Minh. Ngài sinh năm 1832 tại Trà Vy,
Thái Bình. Lãnh phúc tử đạo ngày 06 tháng 12 năm 1861 tại Hải Dương. Thánh
Khang là người giúp việc cho Ðức Cha Hermosilla. Trong khi cố gắng cứu chủ
thoát ngục, ngài bị bắt, bị trừng phạt 120 roi. Sau nhiều lần bị tra tấn, ngài
bị xử trảm (chém đầu). Ngày 19.6.1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc
Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 06 tháng 12.
Thánh Giuse
Nguyễn Duy Khang được các tín hữu Việt Nam tôn kính trong số bốn thánh tử đạo
Hải Dương. Tuy thánh nhân tử đạo sau hơn một tháng, nhưng vẫn được chung vinh
dự với linh mục Almate Bình, hai Giám mục Valentinô Vinh và Hemosilla Liêm, vì
đã cùng đồng lao khổ với ba vị huynh trưởng đó trong dòng Đaminh.
Là người
trợ tá của Giám mục Hemosilla Liêm, thày Giuse Khang đã theo sát gương cha
chung của giáo phận Đông Đàng Ngoài trong những ngày lưu lạc. Rồi khi quân lính
vây bắt Đức cha thì với nhiệt tâm của thánh Phêrô tông đồ xưa trong vườn cây
dầu, thày định dùng võ lực để chống cự. Nhưng sau cùng, thày đã nghe lời của vị
mà mình muốn bảo vệ. Thày chấp nhận bị bắt để làm chứng cho điều cao thượng hơn
: Làm chứng cho tình thương, cho lòng nhân ái và thứ tha của Tin Mừng.
Một
tu sĩ đạo đức
Giuse
Nguyễn Duy Khang chào đời năm 1832, tại Cao mại, xã Trà Vi, huyện Vũ Tiên, phủ
Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Cha mẹ cậu là những giáo hữu đạo đức, hướng dẫn các
con vào đời sống đạo ngày tư nhỏ. Nhưng cha cậu đã sớm qua đời, cậu được mẹ săm
sóc tận tình. Bà lo niệu cho cậu được học hành, gợi cho cậu ý muốn hiến dâng
đời mình cho Thiên Chúa và gởi cậu vào nhà Đức Chúa Trời giúp việc cho cha
Matthêu Năng dòng Đaminh.
Sau mười
năm sống với vị linh mục lão thành thánh thiện này, cậu Giuse Khang được cha
gửi vào chủng viện Kẻ Mốt để học tiếng Latinh, chuẩn bị cho sứ vụ linh mục
tương lai. Giai đoạn này thày Giuse Khang xin gia nhập dòng ba Đaminh, và được
anh em tín nhiệm bầu làm trưởng tràng điều hành mọi ông việc trong nhà như lao
động, nấu ăn, liên lạc cới các bề trên. Mặc dù bận rộn, thay Khang vẫn nêu
gương sáng cho anh em trong việc học hành và kỷ luật. Những ai đã tiếp xúc với
thày đều nói thày đạo đức, có tính cương trực, nhưng lại luôn luôn hòa nhã với
hết thảy mọi người.
Khi đó, Đức
cha Hemosilla Liêm cũng ở Kẻ Mốt đã tín nhiệm thày cách đặc biệt và chọn thày
làm người phụ tá riêng. Thày Khang vui vẻ phục vụ Đức cha cách tận tình : từ
việc dọn bàn thờ, sắp xếp các hồ sơ, sao chép các hồ sơ luân lưu, cho đến công
tác cơm nước, liên lạc. Có lần thày còn đào hang trú ẩn cho hai cha nữa.
Mẫu
gương can đảm.
Giáo Hội
Việt Nam lúc ấy đang trong tình trạng bị bách
hại khốc liệt, dưới thời vua Tự Đức. Để tiêu diệt hết đạo Gia Tô trong cả nước,
nhà vua ban hành chiếu chỉ phân sáp ngày 05.8.1861. theo chiếu chỉ đó, mọi tín
hữu Gia Tô già trẻ lớn nhỏ, nam nữ đều bị phân tán vào các làng ngoại giáo. các
tín hữu bị khắc chữ trên má, gia đình bị phân chia, vợ một nơi, chồng một nẻo,
con cái mỗi đưa một miền. Các thánh đường, nhà chung, tài sản của giáo hữu bị
tịch thu, bị chia chác hay phá hủy.
Trong bối
cảnh đó, ngày 18.9, Đức cha Hemosilla Liêm vô cùng đau đớn khi phải quyết định
giải tán chủng viện Kẻ Mốt. linh mục Khoa, đại diện ngài nói với các chủng
sinh: "Anh em khỏi chào Đức cha, kẻo ngài không cầm nổi nước mắt".
Riêng thày Khang nhất quyết xin và được chọn để đi theo Đức cha cho tới cùng.
Khi giã từ các bạn, thày nói nửa đùa nửa thật: "Tôi nhất định theo Đức
cha, các quan có bắt ngài, ắt sẽ chẳng tha tôi. Đức cha chết vì đạo, tôi cũng
chết theo, mất đầu còn chân sợ gì". Từ đêm đó, hai cha con bắt đầu sống
lưu lạc. Tương lai tuy mờ mịt, nhưng thày Khang vẫn vui tươi nhờ lòng tin tưởng
phó thác và tâm tình hiến dâng mạng sống nếu Chúa muốn.
Ba tuần lễ
đầu, thày Khang cùng với Đức cha sống trong hang trú ẩn ở Thọ Ninh. Nhưng quan
quân đã phát hiện nơi ẩn đó, nên hai cha con phải bỏ đất liền, xuống một thuyền
đánh cá. Thày Khang chèo thuyền qua thị xã Hải Dương đến tá túc trên thuyền của
một giáo hữu tên Bính. Chính nơi đây đã thành "Tòa Giám mục lưu động"
của vị chủ chăn. Được vài ngày, hai vị tình cờ gặp Đức cha Valentinô Vinh và
linh mục Almatô Bình đi thuyền từ Kẻ Nê xuống. Thật là cuộc gặp gỡ vô cùng cảm
động và vui mừng của bốn thánh tử đạo Hải Dương. Các vị tạ ơn Chúa vì cơ may
đặc biệt này, trao đổi tin tức và cùng nhau cầu nguyện cho Giáo Hội. Đến sáng,
các vị chia tay mỗi thuyền đi một ngả.
Một hôm gia
đình Trương Bính xảy ra cuộc cãi lộn. Người con trai tức giận với cha mẹ nên tố
cáo ông bà chứa chấp đạo trưởng. Thế là đội Bảng liền đem gia nhân đến bắt Đức
cha. Thấy họ tới nơi, thày Khang liền nhổ cây sào chống thuyền và chạy đến đứng
chắn trước mặt họ như muốn ngầm bảo : phải bước qua xác tôi, rồi muốn bắt ai
thì bắt.
Nhưng vị
Giám mục khả kính và nhân ái đã đến nắm lấy vai thày, ngài nói: "Đừng làm
gì hại họ, hãy phó mặc cho ý Chúa". Thày Khang ngỡ ngàng quay lại nhìn
người cha già và chợt hiểu ra ý ngài, thày chỉ nói được một lời : "Thưa
vâng", rồi bỏ sào tre xuống đưa tay cho lính trói. Lính giải hai vị vào
thành Hải Dương và giam mỗi vị một nơi.
Vị
tử đạo Hải Dương
Một tháng
rưỡi trong tù, thày Khang được sống chung với một số giáo hữu. Thày liền tổ
chức cho cả phòng giam đọc kinh chung mỗi ngày ba lần, và mỗi tối làm việc
thống hối đền tội để chuẩn bị đón nhận phúc tử đạo. Trong thời gian này, thày
bị đưa ra tòa tra tấn ba lần, bị đánh đòn khắp hai bên mông. Lần nào thày cũng
can đảm chịu đựng, không hề tiết lộ bất cứ chi tiết nào về hàng giáo sĩ, không
chịu bỏ đạo như các quan yêu cầu. Sau mỗi trận đòn, các giáo hữu trong ngục đều
nấu nước rửa và xoa bóp cho thày dịu bớt cơn đau.
Đặc biệt ở
trong tù, thày Khang vẫn tiếp tục viết thư cho các bạn học đang lưu lạc ở làng
Hảo Hội. một lá thư thày viết : "Các quan mới tra tấn tôi một kỳ để hỏi
Đức cha đã ở những đâu, song tôi chẳng trả lời, trái lại vui lòng chịu đòn. Xin
anh em cầu nguyện cho tôi".
Trong lá
thư khác thày viết : "Anh em cho tôi một cái quần, vì quần tôi cũ, phải
đòn nhiều đã rách nát. Cũng xin gửi cho tôi một cái khăn để khi tôi chết, có
cái mà liệm xác đem chôn".
Ngày
06.12.1861, thày Giuse Khang được nghe bản án trảm quyết ở kinh đô gửi ra, thày
vui vẻ theo lịnh ra pháp trường Năm mẫu, nơi đã thấm máu người cha kính yêu của
thày ngày 01.11 trước đó. sau khi bị chém đầu, dân chúng địa phương an táng thi
thể ngay ở ngoài ruộng.
Năm 1867,
theo lệnh của Đức cha Hy, thày cai Hinh, anh ruột của vị tử đạo đã dời hài cốt
em của mình về nhà nguyện Kẻ Mốt.
Ngày
20.5.1906, Đức Thánh Cha Piô X suy tôn thày Giuse Nguyễn Duy Khang lên bậc Chân
Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét